Thursday, January 20, 2022

Làm thế nào có tiền đầu tư

Có nhiều người thắc mắc với tôi là họ muốn đầu tư nhưng không có tiền thì làm thế nào, đây là hướng dẫn dành cho người nghiêm túc:

Bước 1, ghi lại tất cả các chi tiêu hằng ngày, và mỗi tuần kiểm kê con số để đảm bảo không bị lệch. Quan trọng là phải tự mình ghi nó để có cảm nhận về chi tiêu của mình. Tôi dùng MoneyLover từ gần chục năm rồi, các bạn có thể thử.

Bước 2, tìm con số chi tiêu tối thiểu mỗi tháng. Số tối thiểu này cần phải lược bỏ những thứ không phải tháng nào cũng mua ví dụ như quần áo, điện thoại, sửa xe,...  Thông thường bao gồm tiền nhà, điện nước, ăn uống, đi lại. Chúng ta có kỳ vọng con số này bằng 50-60% thu nhập mỗi tháng.

Bước 3, tạo quỹ dự phòng bằng 3 lân chi tiêu tối thiểu. Nếu chi tiêu tối thiểu của bạn bằng 50% thu nhập, bạn sẽ cần 3 tháng để có đủ. Tiền này phải bỏ vào trong tài khoản tiết kiệm ngay, không được rút ra khi còn công việc có thu nhập. Bởi nó chính là tiền cứu bạn khi bạn mất việc và phá sản đầu tư.

Bước 4, xác định mục tiêu, ví dụ một năm phải đầu tư được 20% thu nhập. Cũng có nghĩa là mỗi tháng lúc nhận lương phải bỏ 20% vào quỹ đầu tư ngay lập tức. Làm điều đó bất kể có thiếu tiền nhà hay tiền ăn hay không. Tiền nhà có thể khấc, tiền ăn có thể nhịn, nhưng tiền đầu tư thì nhất quyết không đụng vào.

Bước 5, tính lại xem 80% còn lại có đủ chi trả các chi phí không? Nếu có, giảm xuống còn 70% thì thế nào? Đến khi tìm thấy một con số eo hẹp, thì hãy sử dụng con số đó làm budget. Số tiền dôi ra giữa mục tiêu 20% và con số budget chính là số tiền để đầu tư mạo hiểm một xíu, ví dụ như chứng khoán. Nếu 80% mà không đủ chi trả thì quay lại bước 2, tìm nguồn thu khác hoặc giảm chi tiêu hơn nữa để về mức 50% thu nhập.

Bước 6, kiểm tra chi tiêu liên tục, đánh giá lại tháng này có dư ra cắc bạc nào không? Không dư thì thôi, còn có dư thì lập tức ném nó vào kênh đầu tư siêu mạo hiểm như crypto. Nên nhớ, chỉ mua, không bán, bởi tiền đó là tiền thừa.

Dừng lại một chút để nói về mấy con số. Giả sử bạn có thu nhập 20 triệu VNĐ/tháng, lập tức bỏ 4 triệu vào tài khoản đầu tư, kênh tốt cho nó thường là ETF bởi tính ổn định và lãi tốt ở dài hạn, số tiền này không được rút ra cho đến khi bạn nghỉ hưu. Giờ coi như bạn có thu nhập có 16 triệu, nhưng chi tiêu tối thiểu là 10 triệu, dôi ra chút để mua quần áo và sửa xe và nhiều thứ khác, bạn xác định budget là 14 triệu mỗi tháng. Như vậy thu nhập 16 triệu và không thể chi hơn 14 triệu, 2 triệu kia lập tức kiếm cổ phiếu công ty nào đó mà mua, một vài năm có lời thì chốt để mua cái khác. Với 14 triệu trong budget, nếu bạn chi tiêu lố thì ghi nợ đó, tháng sau ráng giảm chi tiêu để trừ nợ tháng trước, còn nếu bạn chi tiêu ít hơn budget giả sử chỉ 13 triệu thì bạn có ngay 1 triệu để ném vào crypto và đợi nó nhân đôi hay nhân 3.

Nên nhớ một điều, đầu tư vào crypto hay chứng khoán thì có thể mất trắng, nên đừng lo lắng khi bị lỗ. Đằng nào thì bạn cũng có quỹ dự phòng và tài khoản đầu tư ETF dài hạn rồi.

Những gì diễn ra đằng sau các hợp đồng vay tiền mua nhà

Hầu hết mọi người đều nghĩ hợp đồng vay tiền mua nhà đơn giản là hợp đồng vay có thế chấp, giữa người vay tiền và ngân hàng thông qua một bên làm cò trung gian (broker). Theo đó, ngân hàng lấy tiền ra cho người dân vay, người dân có nghĩa vụ trả lãi hàng tháng, nếu không thể trả nổi nữa, thì ngân hàng phát mãi căn nhà lấy tiền trả lại nợ.

Thực tế thì câu chuyện đằng sau còn kéo dài hơn và thú vị hơn. Tôi nêu lại một số điểm chính, không phân tích sâu thêm:

  • Người dùng mua nhà, thế chấp đúng căn nhà để vay và trả lãi theo tháng => đây là hợp đồng vay tiền.
  • Ngân hàng thông qua broker đứng ra trả tiền cho người mua nhà, và là người sở hữu thật sự của hợp đồng vay tiền (không phải chủ sở hữu nhà nhưng là chủ sở hữu hợp đồng vay).
  • Broker có đội ngũ chăm sóc khách hàng, nói chuyện với người mua nhà khi cần thiết, và nhận hoa hồng trên tiền lãi hàng tháng.
  • Trong mắt ngân hàng, hợp đồng thuê nhà không khác gì stock: có thanh khoản (là căn nhà thế chấp) + có giá trị hiện hữu (valuation - chính là tổng số tiền mà người mua nhà phải trả = tổng số tiền đã vay - tổng số tiền phải trả) + có cổ tức (chính là tiền lãi hàng tháng trừ cho các loại hoa hồng thuế phí).
  • Đã giống stock thì tất nhiên có thể giao dịch được, và thế là một marketplace cho việc chuyển giao hợp đồng vay tiền bắt đầu.
  • Trên thực tế, người mua các hợp đồng vay tiền là quỹ hưu trí hoặc quỹ lớn hoặc các nhà tư bản lớn, vốn cần một kênh đầu tư sinh lợi tốt mà rủi ro thấp và dù thế nào đi nữa cũng không lỗ (thứ còn lại duy nhất có đặc tính "không bao giờ lỗ" là trái phiếu chính phủ, nhưng lại lãi quá thấp).
  • Hợp đồng này có đặc điểm riêng biệt là giá trị càng nhỏ thì rủi ro càng thấp (tức người vay còn nợ ít trong khi tài sản thế chấp càng có giá trị so với số nợ). Bởi thế sẽ có rất nhiều phân khúc cho người mua hợp đồng lựa chọn, thậm chí họ có thể chọn tất cả các phân khúc từ rủi ro thấp đến cao, bởi ngân hàng có vô số những hợp đồng như vậy.
  • Cũng giống như cổ phiếu, các hợp đồng này có thể chuyển từ người mua này cho người mua khác.

Tóm lại, vai trò của các bên như sau:
  • Ngân hàng:
    • Đánh giá mức độ tín dụng của người vay.
    • Cho vay tiền trước (upfront).
    • Gom các hợp đồng vay tiền lại để bán lại theo gói (mỗi gói có thể chỉ bằng một phần nhỏ giá trị của một hợp đồng vay tiền).
    • Chăm sóc người vay.
  • Broker:
    • Kiếm người vay mới, giải đáp mọi thắc mắc của họ.
    • Chăm sóc người vay tiền.
    • Nhận hoa hồng từ ngân hàng.
  • Marketplace:
    • Tạo sân chơi cho ngân hàng và các nhà tư bản gặp nhau, trao đổi về các hợp đồng vay tiền.
    • Cung cấp chỉ số tín dụng (credit score) cho các bên liên quan.
    • Nhận phí giao dịch và hoa hồng từ các nhà tư bản.
  • Nhà tư bản (gọi chung cho các quỹ lớn và các nhà tư bản lớn):
    • Có vốn lớn và không muốn bị lỗ nhưng kiếm lời tốt hơn trái phiếu.
    • Mua các gói hợp đồng vay tiền và nhận lãi hàng tháng.
    • Bán lại các hợp đồng vay tiền nếu có nhà tư bản khác sẵn sàng trả giá cao hơn (giống giao dịch cổ phiếu).
  • Người vay tiền:
    • Sở hữu căn nhà.
    • È cổ trả vốn lẫn lãi cho 4 bên còn lại. Theo tháng. Và lãi sẽ chồng lãi.
Xét về động lực, có thể thấy:
  • Người vay tiền:
    • Chấp nhận trả lãi để chấp dứt việc trả tiền thuê nhà, có căn nhà mơ ước, được trải nghiệm cảm giác ấm cúng thật sự.
    • Chấp nhận thực tế là lãi suất có thể tăng hoặc giảm theo biến động thị trường.
    • Không hiểu được cái khái niệm "biến động thị trường" thực tế là chuyện do các nhà tư bản và marketplace quyết định.
    • Tuy nhiên, họ có thể thay đổi ngân hàng hay broker nếu tìm được kèo khác thơm cho họ.
  • Nhà tư bản:
    • Đem tiền đầu tư, và sinh lợi nhuận tốt hơn trái phiếu mà không có rủi ro (kèo siêu thơm).
    • Luôn mong muốn lãi suất càng cao càng tốt.
  • Marketplace:
    • Do sống bằng phí giao dịch, nên luôn muốn thị trường càng sôi động càng tốt, và có 2 hướng của một thị trường sôi động:
    • Một là, số hợp đồng vay tiền càng lúc càng nhiều.
    • Hai là, lãi suất biến động lên xuống liên tục, khiến việc sang tay giữa các nhà tư bản càng lúc càng nhiều.
  • Ngân hàng:
    • Chung quy lại, họ không mất xu nào vì tiền cho vay sẽ được các nhà tư bản trả lại sau khi họ bán được hợp đồng vay tiền. Tuy nhiên, họ nhận được khoản chia phần trăm trên số lãi hàng tháng.
    • Luôn muốn giữ người vay tiền với mình, bởi đó là cách duy nhất họ có tiền. Chính vì vậy họ muốn mình có thể giảm lãi và mấy ngân hàng khác thì không giảm bằng mình.
  • Broker:
    • Luôn muốn kéo nhiều người vay càng tốt.
    • Tìm cách giảm lãi suất và các chiêu trò khác nhằm đáp ứng nhu cầu của từng người vay tiền.
Từ đó, chúng ta có thể thấy "biến động lãi suất" là do:
  • Phe ngân hàng + broker tìm cách kéo lãi suất xuống.
  • Phe nhà tư bản tìm cách kéo lãi suất lên.
  • Phe marketplace cổ vũ cho cả hai bên giằng co.
  • Còn phe người vay tiền thì tiếp tục è cổ trả lãi và gốc.

Biểu mẫu liên hệ

Name

Email *

Message *